Bài Tin Mừng hôm nay và ngày mai là một phần của Bài Giảng Trên
Núi. Trong sách Tin Mừng thánh Mát-thêu, đây là bài giảng đầu tiên và vì thế có
tầm quan trọng đặc biệt. Trong bài giảng này, Đức Giê-su mời gọi những người đi
theo Ngài “kiện toàn” Lề Luật, bằng cách đặt nền tảng cuộc sống của chúng ta,
cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đoàn, không phải trên chữ viết của Luật, nhưng
trên lời nói của Ngài, vốn là một Ngôi Vị luôn sống động ở giữa chúng ta và muốn
đi vào tương quan thiết thân với chúng ta. Vậy thì trong bài Tin Mừng này, Ngài
dạy chúng ta phải “kiện toàn” như thế nào luật bố thí, cầu nguyện và ăn chay?
Trong đời sống đức tin, chúng ta được mời gọi, ở cấp độ cá nhân và
cộng đoàn, bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Tuy nhiên, lời của Đức Giêsu không nhấn
mạnh đến số lượng, nghĩa là phải bố thí bao nhiêu, phải cầu nguyện bao lâu và
phải ăn chay như thế nào và bao nhiêu lần (vốn là chức năng của Lề Luật), nhưng
đến cách thức chúng ta thực hành ba việc đạo đức căn bản này.
1. “Đừng như những người giả hình”
Bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba việc đạo đức căn bản không chỉ
của Do Thái giáo, nhưng trong mọi tôn giáo, trong đó có Kitô giáo của chúng ta.
– Bố thí diễn tả tương quan của chúng ta với tha nhân.
– Cầu nguyện diễn tả tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
– Ăn chay diễn tả tương quan của chúng ta với chính mình.
Trong cả ba việc đạo đức này, Đức Giêsu mời gọi chúng ta một cách
thật mạnh mẽ: Anh em đừng bố thí, cầu nguyện và ăn chay như những người giả
hình. (c. 2.5.16)
Trong mọi tôn giáo và thuộc mọi thời, những người giả hình là những
người thường thực hiện những việc đạo đức một cách phô trương, nghĩa là làm vì
người khác và tìm sự chú ý và khen ngợi của người khác. Việc làm của họ không
có chiều kích “thiêng liêng”, hay rộng hơn, không có chiều kích nội tâm, nghĩa
là được định hướng bởi tâm tình vì Thiên Chúa, cho Thiên Chúa và trong Thiên
Chúa, nhưng chỉ có vẻ bề ngoài mà thôi.
Thay vì phô trương, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo
đức một cách kín đáo. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín
đáo”, trong đó 5 lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: “Cha của anh hiện diện
nơi kín đáo”; “Cha của anh thấy trong kín đáo”. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Đức
Giêsu là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con
kín đáo” như Cha của mình. Không phải để thi thố sự khiêm nhường, nhưng để trở
nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một
cách kín đáo. Vì thế, những người kín đáo (như các Ma Sơ, các Dì các bà và các
cô) dễ trở nên giống Thiên Chúa hơn!
Thật vậy, chúng ta cứ nghiệm lại mà xem: Thiên Chúa hiện diện và
hành động kín đáo biết bao trong sáng tạo, trong lịch sử loài người, nơi cuộc đời
chúng ta và nhất là nơi bí tích Thánh Thể, được hoàn tất nơi mầu nhiệm Thập Giá
của Đức Giê-su. Chúng ta phải có ngũ quan biết chiêm niệm, như các tác giả
Thánh Vịnh (x. Tv 8; 19; 139..), mới nhận ra Thiên Chúa hiện diện, lên tiếng và
hành động được.
2 “Đừng như những người ngoại” (Mt 5, 7-15)
Trong ba việc đạo đức, Đức Giêsu nói về cầu nguyện cách đặc biệt nhất:
trước hết, việc cầu nguyện có vị trí trung tâm, không chỉ ở trung tâm của bộ ba
bố thí, cầu nguyện và ăn chay, nhưng còn ở trung tâm của toàn bộ “Bài Giảng
Trên Núi”; và ngoài ra, Đức Giêsu nói về cầu nguyện dài nhất, trong đó có lời
nguyện “Lạy Cha của chúng con”, vang lên trên môi miệng của chúng ta nhiều lần
trong ngày (bài TM của Lễ Tro lược đi phần Kinh Lạy Cha (c. 7-15).
Lời dạy của Đức Giêsu về cầu nguyện còn có một điểm đặc biệt nữa,
đó là Ngài không chỉ nói: “khi anh em cầu nguyện, đừng trở nên như những người
giả hình” (c. 5), nhưng còn nói: “anh em đừng lải nhải như dân ngoại!” (c. 7)
Thực vậy, lời nguyện của chúng ta không được trở thành những lời lải nhải chỉ
qui về mình, nghĩa là nhằm thỏa mãn nhu cầu, hoặc như những âm thanh vô hồn,
nhưng phải là một lời ca tụng dựa trên tương quan thiết thân Cha-Con. Vì thế,
trong lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”:
– Chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để đi vào tương quan phụ-tử với
Thiên Chúa, là Cha của chúng ta.
– Ra khỏi mình để quan tâm trước hết đến Danh của Cha, đến Nước của
Cha, đến Ý của Cha.
– Và sau đó mới quan tâm đến sự sống của mình, nhưng không phải sự
sống mà mình muốn, nhưng là sự sống đích thật mà Thiên Chúa muốn: đó là sự sống
được xây dựng trên những ơn huệ: ơn huệ lương thực, ơn huệ giải thoát khỏi sự dữ
và ơn huệ thứ tha.
Và Đức Giêsu đặc biệt nhất mạnh đến ơn tha thứ, vì con người không
thể sống nếu không có ơn tha thứ: tha thứ của Cha nhân hậu và sự tha thứ mà
chúng ta trao ban cho nhau.
3. “Hãy tha thứ cho nhau”
Sau khi dạy những lời chúng ta cần ngỏ với Chúa Cha (c. 9-13), Đức
Giêsu nhắc lại một điểm đã được nêu trong những lời này, đó là sự tha thứ: “Thật
vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta…” Như thế, sự tha thứ có tầm quan trọng đặc
biệt. Chúng ta không thể sống với nhau nếu không tha thứ cho nhau (kinh nghiệm
được bố mẹ và các anh các chị tha thứ khi chúng ta còn bé), và chúng ta cũng
không thể “sống với” Chúa, nếu không được Ngài tha thứ. Nếu ơn huệ (don) là nguồn
gốc và nền tảng của mọi tương quan, thì ơn tha thứ là “ơn huệ hoàn hảo”
(par-don), giúp tái tạo và làm cho đạt tới mức viên mãn ơn huệ ban đầu. Ơn huệ
(don) và ơn tha thứ (pardon) tương ứng với ơn sáng tạo (creation) và cứu chuộc
(salvation).
Lời Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến việc chúng ta cần tha thứ cho
nhau, đến độ, tha thứ cho nhau là “điều kiện” cho ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Ngài nói về điều này 2 lần, một lần xác định và một lần phủ định: “Nếu…”.
Tuy nhiên, theo lời nguyện “Lạy Cha” ơn tha thứ của Thiên Chúa
không “tự động” rơi xuống trên chúng ta một khi chúng ta đã tha thứ cho nhau.
Chúng ta vẫn phải xin: “Xin tha tội cho chúng con, như chính chúng con đã tha
thứ (động từ ở thì quá khứ) cho những người có lỗi với chúng con”. Bởi lẽ ơn
tha thứ không bao giờ là “tự động”, ơn tha thứ chỉ có thể được trao ban trong một
tương quan nhìn nhận nhau, đón nhận nhau (x. dụ ngôn Người Con Hoang Đàng; và
bí tích hòa giải cũng diễn tả tương quan này). Ơn tha thứ là một ơn huệ, và hơn
cả ơn huệ (pardon). Hơn nữa, nợ người ta mắc với chúng ta thì ít, còn nợ của
chúng ta mắc với Thiên Chúa thì quá lớn (x. dụ ngôn nhỏ trong Lc 7). Tuy nhiên,
chúng ta không thể xin Thiên Chúa tha thứ, trong khi mình đã không tha thứ hay
sẵn sàng tha thứ cho người khác.
Nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy khó tha thứ cho nhau. Vì thế,
kinh nghiệm lòng thương xót, sự bao dung và sự tha thứ của Thiên Chúa nơi bản
thân mình chính là nguồn sức mạnh để chúng ta có thể tha thứ cho nhau. Bởi vì,
ngang qua lời mời gọi yêu mến nhau và tha thứ cho nhau của Chúa, chúng ta nhận
ra rằng Chúa chính là “yêu mến và tha thứ”. Và điều này được “chứng thực” nơi mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét