Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

Cuộc đời và Tiếng Gọi - Lễ Thánh Phanxicô Xaviê 3/12

3-12 - Lễ kính Thánh Phanxicô Xaviê, Bổn mạng các xứ truyền giáo, Bổn mạng các giáo lý viên, Bổn mạng Gia đình Phanxicô Xaviê GP. Kon Tum

In




Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà làđi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.

 Thánh Phanxicô Xaviê, 3-12

1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3.12.1552, được Đức Thánh Cha  Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh)

Thánh Phanxicô Xaviê rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc Á Châu
.
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.

Thánh Phanxicô Xaviê, 3-12

b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6.5.1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3.12.1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dỡ…Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẳn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.

Thánh Phanxicô Xaviê, 3-12

3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm", là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến Phong trào Hướng đạo Công Giáo Italia


11/9/2014 7:45:24 AMVATICAN. Sáng ngày 8-11-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7 ngàn tráng sinh thuộc Phong trào Hướng đạo Công Giáo Italia, nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập ngành này ở Italia.
PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-1.jpg
 Trong bài huấn dụ, ĐTC phân tích nguyên ngữ của phong trào ”Scoutisme” là ”hướng đạo” và ngài khuyến khích các thành viên phong trào này hướng đạo trong gia đình, trong thiên nhiên và trong thành thị. Ví dụ về việc hướng đạo trong thiên nhiên, ngài nói:

”Thời đại chúng ta ngày nay không thể không chú ý đến vấn đề môi sinh, là điều sinh tử đối với sự sống còn của con người, và không thể thu hẹp vấn đề này như một vấn đề hoàn toàn chính trị mà thôi. Môi sinh học có một chiều kích luân lý liên hệ tơi mọi người, vì thế không ai được phép lơ là. Trong tư cách là môn đệ Chúa Kitô, chúng có có thêm một lý do nữa để liên kết với mọi người thiện chí trong việc bảo vệ và gìn giữ thiên nhiên, môi trường. Thực vậy, thiên nhiên là một món quà Đấng Tạo Hóa đã ủy thác vào tay chúng ta. Toàn thể thiên nhiên xung quanh cũng là điều đã được Thiên Chúa dựng nên như chúng ta, cùng với chúng ta, và trong một vận mệnh chung, hướng đến việc tìm thấy nơi Thiên Chúa sự viên mãn và cùng đích.. Sống gần gũi với thiên nhiên, như anh chị em đang làm, không những bao hàm sự tôn trọng thiên nhiên, nhưng còn dấn thân cụ thể để loại trừ những phung phí của một xã hội có xu hướng gạt bỏ những vật dùng còn dùng được và có thể tặng cho người đang cần”.

Sau cùng, ĐTC khuyến khích các tráng sinh hướng đạo Công Giáo sống giữa lòng xã hội như men làm dậy bột, đóng góp chân thành cho việc thực thi công ích và vui mừng đề nghị cho tha nhân các giá trị Tin Mừng.

PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-2.jpg

PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-3.jpg



PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-4.jpg

PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-5.jpg

PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-6.jpg

PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-7.jpg

PopeFrancis-ItalianAdultScoutingAssociation-8.jpg


 
(G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana 06811.2014/ SD 8-11-2014)
http://conggiao.info/news/809/25473/duc-thanh-cha-tiep-kien-phong-trao-huong-dao-cong-giao-italia.aspx
------------------------------------------
Xin chia sẻ Thông Tin này đến với Phong trào Hướng Đạo Sinh Việt Nam đang được phục hồi nhanh chóng và lớn mạnh sau nhiều thập niên bị ngưng trệ vì yếu tố chính trị.
MTC

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

Thánh Stêphanô Théodore CUENOT (THỂ) Thánh Tổ Phụ Giáo Phận Kon Tum





  Như một Phaolô ngày xưa .

  Cuộc đời thánh giám mục Cuênot (Thể) với 32 năm phục vụ Giáo Hội Việt Nam, 26 năm trong chức giám mục, gắn liền với những trang sử đẹp nhất, giữa một giai đoạn khó khăn nhất thời bách hại. Nhiệt tâm truyền giáo của Ngài như ngon thủy triều dâng tràn đến mọi người mọi nơi. Với tài đức khéo léo, Ngài đã đào tạo một đội ngũ linh mục xuất sắc và hàng ngàn thày giảng, nữ tu hăng say. Với châm ngôn:”Để tín hữu vững tin, phải đào tạo những tông đồ truyền giáo”, nên dù cho bao linh mục, tu sĩ, giáo dân của ngài bị tàn sát , địa phận Đàng Trong của ngài vẫn phát triển mạnh mẽ, đủ sức tách làm bốn địa phận. Số linh mục , tu sĩ, tân tòng gia tăng nhanh mỗi năm, sẽ mãi mãi là bằng chứng của nhiệt tâm và tài tổ chức của ngài.
  Stephano Théodore Cuênot sinh ngày 08-2-1802 tại Sous Réamont thuộc Bélieu, nước Pháp. Lớn lên cậu vào chủng viện Besancon, và thụ phong linh mục 24-9-1825. Tuy thế, hoài bảo chính của tân linh mục là đi truyền giáo. Năm 1828, cha Cuênot xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris, và năm sau được cử đến Việt Nam. Ngày 31-5-1829, cha đến Kẻ Vĩnh, dịa phận Đàng Ngoài . Ngày 24-7 cha vào miền Nam.
   Mới đầu cha được gởi đến Lái Thiêu để học thêm tiếng Việt, đồng thời dạy các chủng sinh ở đó. Bốn năm dạy ở chủng viện, tuy là thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cha hiểu nhiều về phong hóa địa phương, gắn bó với các cộng tác viên tương lai. Năm 1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc, triệt hạ các nhà thờ, tập trung các thừa sai và bắt các tín hữu phải bỏ đạo. Vì mới lần đầu va chạm với bách hại, các tín hữu khi đó chưa dám chứa chấp các vị thừa sai. Đức cha Tabert Từ liền quyết định đưa các vị di tản qua Thái Lan. Cha Thể phụ trách phụ trách việc di tản 15 chủng sinh. Sau hơn một tháng rưởi hành trình vất vả,đoàn người đã đến Thái Lan và đươc vua Thái tiếp đón nồng nhiệt.
    Thời gian đó, Thái Lan và Việt Nam đang có chiến tranh, nên vua Thái muốn nhờ các vị thừa sai kêu gọi dân công giáo chống lại vua Minh Mạng. Dĩ nhiên Đức cha Tabert Từ không thể nào chấp nhận, ngài cương quyết từ chối. Điều đó làm Thái Hoàng nổi giận và thay đổi cách cư xử. Nhà vua ra lệnh bắt giam ba linh mục và các chủng sinh Vệt Nam. May nhờ tài ăn nói thuyết phục của cha Thể, vua mới nương tay và cho họ đến ẩn náu tại chủng viện Pénang ( Mã Lai ) năm 1834. Cha nói :
   “Bằng mọi giá phải lo cho họ. Như tôi ( một thừa sai) chết, người ta có thể gửi người khác thay thế chậm lắm là một năm. Một linh mục, chủng sinh Việt nam nằm xuống, phải mất hai ba chục năm mới có người thay thế được”.
  Cũng năm đó , vì không ủng hộ Thái Lan đánh Việt Nam, Đức Cha Tabert Từ lại phải chạy đến Singapor.


  Hoa tiêu giữa sóng gió .
    Tuy sống cách xa nghìn dặm, Đức cha, cha Thể và các vị thừa sai vẫn hướng tâm hồn về Giáo Hội Việt Nam đang lâm cảnh máu chảy đầu rơi, vừa thương xót vừa thán phục, các ngài tìm cách trở lại miền đất truyền giáo này. Năm 1835, Đức Cha Tabert có quyết định mới. Khi thấy trên mảnh đất Lạc Hồng chỉ còn hai thừa sai và 10 linh mục Việt Nam, Đức cha liền đáp tàu sang Pénang, truyền chức Giám mục cho cha Thể, chọn làm phụ tá mình, và cử vị tân Giám muc cấp tốc trở về địa phận.
   Trở lại Việt Nam trong những ngày bách hại khốc liệt, sự hiện diện của Đức cha Thể quả là niềm an ủi lớn lao cho các tín hữu. Đặt trụ sở ở Gò Thị, tỉnh Bình Định, Đức cha thấy mình không thể đi thăm hết các họ đạo được, Ngài liền viết thư luân lưu gửi đến khắp nơi để cổ võ tinh thần đạo đức của giáo hữu. Từ nay tất cả các biến cố trong địa phận: Những cuộc càn quét của quân lính, những chứng nhân bị bắt giam, những cuộc tử đạo, cho đến những thành quả tông đồ, đều được người cha chung địa phận cảm thông, viết thư khen ngợi, ủy lạo hay khích lệ. Nhờ đó, các linh mục và giáo hữu đều thấy thêm can đảm.
   Việc Đức cha bận tâm nhất là sĩ số các linh mục phục vụ. Ngoài hai linh mục đã theo ngài về từ Thái Lan, năm 1835, Đức cha truyền chức cho 10 thày giảng. Năm sau, Ngài xin Hội Thừa Sai thêm được sáu linh mục. Là người sáng suốt nhìn xa trông rộng , Đức cha cho tái lập hai chủng viện , một ở Huế trao cho cha Candalh Kim và một ở miền Nam trao cho cha Lefebre Nghĩa. Đồng thời Đức cha cũng gọi các nữ tu Mến Thánh Giá trước đây đã phải phân tán về gia đình ( 250 dì) trở lại sống chung và hoạt động trong 18 nhà phước.
   Ngày 31-7-1840, Đức cha Tabert Từ qua đời tại Calcuta ( Ấn Độ ), Đức cha Thể chính thức làm đại diện Tông tòa. Năm sau ngài tổ chức lể tấn phong cho tân Giám mục Lefebre làm phụ tá. Lợi dụng tình hình lắng dịu hơn, ngài tổ chức Công Đồng Gò Thị ( 1841) gồm ba thừa sai và 13 linh mục Việt trong địa phận. Công đồng dưới sự điều khiển của Đức cha Thể, đã đưa ra những nguyên tắc sáng suốt để đào tạo một lớp linh mục bản xứ đông đảo và nhiệt thành. Nếu việc mở chủng viện khó khăn, mổi thừa sai có trách nhiệm dạy sáu bảy em, rồi gửi qua Pénang học bảy năm. Họ sẽ về Việt Nam thụ phong linh mục và làm việc. Cách tổ chức ấy trong thực tế đã cung cấp cho địa phận Đàng Trong một số khá đông linh mục thông thái và đạo đức.
Tượng Đức Thánh GM Tử đạo Stéphanô Cuénot (Thể), Thánh Tổ phụ & Đấng sáng lập Giáo phận Kon Tum, bên cạnh Nhà thờ Chính Tòa Giáo phận Kon Tum

   Vị chủ chăn nhiều tài năng và sáng kiến
   Dù hoàn cảnh khó khăn, Đức cha vẫn quan tâm đến việc nâng cao kiến thức và nhân đức cho hàng giáo sĩ, mổi năm ngài gửi cho các linh mục những bài học hỏi về tín lý, luân lý. Các cha sẽ viết bài rồi nộp trong kỳ tĩnh tâm hàng năm. Sau đó chính Đức cha đọc, sửa bài và gửi thư nhắn nhủ cho từng linh mục. Đối với giáo hữu, Đức cha chủ trương rằng “ Phương pháp tốt nhất để đức tin của giáo hữu vững vàng là đào tạo họ thành những tông đồ truyền giáo”. Thực vậy, nhờ giải thích cho người khác về giáo lý, các giáo hữu ngày càng xác tín hơn về niềm tin của mình. Hơn nữa, họ tự thấy nghĩa vụ làm gương cho anh em tân tòng về đời sống đạo và tinh thần can đảm giữ vững đức tin.
   Đối với những giáo hữu vì sợ hãi đã xuất giáo, đạp lên Thánh Giá, Đức Cha sẵn lòng thay mặt Chúa tha thứ. Nhưng ngài xin họ nhận một điều kiện là hứa giúp cho một lương dân theo đạo Công Giáo. Bên cạnh đó, hàng năm Đức Cha làm thống kê báo tin xứ đạo nào có nhiều tân tòng hơn, khiến các xứ thi đua làm việc tông đồ. Đăc biệt phải nói đến lòng can đảm của các nữ tu Mến Thánh Giá. Các chị chia nhau, cứ hai người một, đi hết các làng mạc, phát thuốc men cho bệnh nhân, và khi có thể, rửa tội cho trẻ em sắp chết. Nếu năm 1835, khi Đức cha mới về nước (Việt Nam), số trẻ em ngoại giáo được rửa tội 133 em, thì năm 1841 là 1800 em và năm 1843 là 8.273 em. Năm 1844, số trẻ em gia đình Công Giáo được rửa tội là 5.056 thì số người lớn trở lại và rửa tội là 1.007, nghĩa là một phần năm .
   Nhiều giáo hữu sẵn sàng bỏ tiền bạc, công sức nuôi dùm trẻ em những người quá nghèo, chỉ với điều kiện là cho em gia nhập đạo. Lòng bác ái sâu xa ấy quả là bài giảng hùng hồn về sức sống của Giáo Hội. Nhiều người thiện chí, và đôi khi cha mẹ các em cũng xin trở lại vì những bài giảng sống này.
   Một công trình lớn lao khác của Đức cha Thể là công cuộc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số miền Thượng du, đặc biệt là dân tộc Bahnar, Chính Đức Cha cử nhiều đợt người theo dõi, khích lệ và đưa ra những chỉ đạo thích hợp để anh em thượng nhận được Ánh Sáng Tin Mừng.
   Những thành công lớn lao của Đức Cha đã được Tòa Thánh công nhận, năm 1844 khi phân chia địa phận Đàng Trong thành hai địa phận Đông ( Qui Nhơn) và Tây (Saigon). Tiếp theo đến năm 1850 lại chia làm bốn là Nam Vang, Saigon, Bắc(Huế) và Qui Nhơn. Từ đây Đức Cha Thể chỉ coi sóc địa phận Đông Đàng Trong, nhưng lại ở trong tình hình bách hại mới gay gắt hơn nhiều .
Tượng Thánh Stéphanô Cuénot (Thể)&Nhà thờ Chính tòa Kon Tum

   Lòng Kính Mến Đức Mẹ
  Trong 10 năm liền , nhờ sự che chở của các tín hữu và các nữ tu Mến Thánh Giá, Đức Cha và các linh mục thoát khỏi các cuộc truy lùng. Thế nhưng các ngài phải thay đổi chổ ở liên tục, nhiều đêm ngủ ngoài trời “đếm sao” có lúc phải vào rừng sâu hay đầm lầy, chịu đói chịu khát, chịu khí hậu thất thường và nhiều lần suýt chết trong khi thăm viếng bệnh nhân hay giải tội cho người hấp hối. Thế mà trong thời gian này, Đức Cha duy trì thường xuyên mối liên lạc với Tòa Thánh. Đặc biệt khi được hỏi về  tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, Ngài đã trao đổi với các linh mục trong địa phận, rồi gửi thư bày tỏ lòng kính mến Đức Maria của dân Việt cho Tòa Thánh. Cuối thư Đức cha viết :
  “Xin Đức Thánh Cha cho con được hiệp thông trong lời cầu nguyện cùng với tất cả các giám mục khác trong ngày Đức Thánh Cha long trọng công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội “


     Tượng Thánh GM. Tử đạo Stéphanô Cuénot (Thể)

Tù Tội Vì Rao Giảng Tin Mừng
   Năm 1861 , chếu chỉ “phân sáp” của vua Tự Đức làm Giáo Hội Việt Nam một phen điêu đứng. Đức Cha Thể đã khuyên các thừa sai trong địa phận di tản vào Saigon, nhưng chính ngài tình nguyện ở lại, ngài đưa ra một phương châm bất hủ: “Dù chỉ còn một thừa sai chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên việc hiện diện của vị đó đủ để nâng đở niềm tin và sinh hoạt của tín hữu rồi”.
   Từ tháng 10, Đức Cha phải bỏ Gò Thị trốn từ nhà này sang nhà khác. Ngày 24-10-1861, ngài đang ẩn ở nhà bà Madalena Huỳnh Thị Lựu thì quân lính bao vây nhà bà…
   Đức Cha và hai chú giúp lễ kịp trốn xuống hầm, nhưng vừa dâng lể xong chưa kip cất giấu đổ lễ. Vì chứng cớ ấy mà quân lính thề phá nhà, nếu không tìm thấy  đạo trưởng Tây dương. Mọi người trong nhà đều bị tra tấn, bà Lựu bị đánh đòn 17 roi. Sau hai ngày và một đêm ở dưới hầm, Đức Cha và hai chú giúp lễ khát khô cả cổ. Vả lại vì quân lính chẳng bỏ đi, nếu chưa bắt được Đức Cha, nên ngài tự ra nộp mình. Vừa thấy ngài, quân lính chồm tới trói chân tay ngài lại như một con thú. Nhưng viên chỉ huy nhân đạo hơn, cho cởi trói và mời ngài ngồi chiếu nói chuyện với ông ta.
     Hôm sau , Đức Cha bị nhốt trong cũi đưa về tỉnh. Hai chú giúp lễ, bà Lựu và hai người lân cận cũng mang gông giải đi ( sau này tất cả cùng bị xử tử tháng 12). Bà Lựu vừa cho con bú vừa ra pháp trường, rồi hôn con lần cuối trao lại cho bà ngoại. Tháng 10 năm đó, miền trung bị lụt, nước dâng lên đến lưng, nên ngồi trong cũi chật chội, Đức Cha cũng bị ngập nước, do đó, khi đến nhà giam thì Đức Cha lâm trọng bệnh. Chứng kiết lị làm sức khỏe ngài càng đuối dần, vì thế, ngài chỉ phải ra tòa một lần.
   Quan hỏi :
-    Tại sao ông sang nước tôi ?
-    Thưa ,để giảng đạo Thiên Chúa.
-    Ông ở đây bao lâu rồi ?
-    Ba mươi bốn năm.
-    Ông đã ở những đâu ?
-    Thưa, trước hết là Bình Định rồ Phú Yên, Bình Thuận và lại trở về Bình Định.
-    Ông biết gì về chiến tranh không ?
-    Thưa không biết gì cả. Tôi đến đây chỉ để giảng đạo, khi nơi này khi nơi khác thế thôi. Quan hành hạ thế nào tôi cũng đành chịu, chứ tin tức chiến tranh tôi hoàn toàn không biết gì cả.

Linh mục đoàn Giáo Phận Kon Tum về dự Tĩnh Tâm từ 03 đến 08-11-2014 tại Tòa Giám Mục Kon Tum

 Trở về với chiếc cũi của mình, cơn bệnh khắc nghiệt chỉ trong vòng ba tuần lễ đã làm Đức cha kiệt sức và thở hơi thở cuối cùng ngày 14-11-1861, kết thúc 32 năm truyền giáo không một ngày bình an.
    Hôm sau, ngày Đức Cha qua đời, bản án trảm quyết từ Huế mới đến Bình Định. Thấy Ngài đã từ trần, quan trấn thủ Bình Định không cho chém nữa, truyền đem đi chôn, những tín hữu đang bị tù xin phép mua cho Đức Cha một áo quan xứng đáng, nhưng trấn thủ không chấp thuận. Nhưng sau đó, triều đình lại gửi ra một bản án mới ghi thế này:
   “Tây dương đạo trưởng Thể đã lẩn lút trong nước ta 40 năm nay. Y đã giảng đạo và lừa dối dân chúng . Bị bắt và tra hỏi, y đã thú nhận mọi tội lỗi. Lẽ ra phải chém đầu y bêu lên giữa chợ nhưng vì y đã chết trong tù, ta truyền phải quăng xác y xuống sông “
    Chiếu theo bản án ấy, quan Trấn thủ cho đào mồ Đức Cha lên , để liệng thi hài Đức Cha xuống sông .
     Mặc dù Đức Cha Cuenot (Thể) không đổ máu vì Đức tin, nhưng căn cứ vào bản án và muôn ngàn nỗi truân chuyên ngài đã chịu vì đạo, Giáo Hội đã tôn kính Đức Cha với tước hiệu tử đạo .
    Ngày 02-5-1909 Đức Piô X nêu danh Đức Cha Stephano Théodore Cuenot (Thể) đứng đầu danh sách 20 vị tử đạo tại Việt Nam được suy tôn lên bậc Chân Phước.
    Ngày 19-06-1988 Đức Gioan-Phaolo II đã phong Ngài lên bậc Hiển Thánh .

     (Ghi lại từ quyển Thiên Hùng Sử , 117 Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam
        Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, San Jose, California, Hoa Kỳ. giữ bản quyền)
                                                                                

 JB Kim Thông
GLV Kon Tum

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lễ Các Thánh Nam Nữ tại nghĩa trang Verano của Rôma


11/2/2014 2:24:17 PMCũng như năm ngoái, buổi chiều ngày 1 tháng 11, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành lễ Các Thánh Nam Nữ tại nghĩa trang Verano của Rôma
PopeFrancis-01Nov2014-2.jpg

Trong bài giảng ứng khẩu Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày những suy tư rút ra từ bài đọc thứ nhất trích từ sách Khải Huyền. Đức Thánh Cha đã tập trung vào ba hình ảnh. Đầu tiên là hình ảnh bốn vị thiên sứ cảnh báo chống lại sự tàn phá của Trái Đất. Ngài nói rằng có một ngạn ngữ nằm trong trái tim của tất cả chúng ta: "chúng tôi có thể hủy diệt thế giới tàn khốc hơn". Thực vậy, con người có khả năng tàn phá thế giới này hơn các thiên sứ: "tàn phá cuộc sống, văn hóa, các giá trị, và niềm hy vọng". 

"Chúng ta cần đến sức mạnh của Chúa biết bao để chúng ta có thể liên kết với tình yêu của Ngài mà ngăn chặn sự phá hủy kỳ công sáng tạo điên rồ này". 

Đức Thánh Cha sau đó đề cập đám đông không đếm nổi những con người đề cập đến trong bài đọc. Ngài so sánh các vị với những người bị lãng quên và vứt bỏ trong cuộc sống này. "Có vẻ như những người dân, các trẻ em đói khát và bệnh tật không được tính đến. Họ dường như là những sinh vật khác, không phải loài người. Đám đông cơ man những con người này đứng trước mặt Thiên Chúa ". 

Ngài khích lệ chúng ta nghĩ đến các vị thánh chúng ta không biết đến, là "những người đến từ cơn đại nạn ở nhiều nơi trên thế giới, những người đã được Chúa thánh hóa thông qua những hoạn nạn". 

Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc đến hình ảnh thứ ba là Thiên Chúa: “Chúng ta là con cái Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Nhưng chúng ta hy vọng chúng ta sẽ nên giống như Người. Chúng ta hy vọng Chúa sẽ thương xót dân Người”.

Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu rằng "để hành trình về với Chúa Cha, trong thế giới đầy những tàn phá của chiến tranh, của hoạn nạn, chúng ta phải hành động theo các mối phúc thật. Đó là con đường sẽ cứu chúng ta. Tuy con đường này sẽ dẫn chúng ta đến với những khó khăn và bách hại, nhưng chỉ có con đường này sẽ dẫn chúng ta tiến về phía trước.” 

"Những người đi tiếp trên con đường của các mối phúc thật sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và nên thánh". 

Nghĩa trang rộng lớn Verano được hình thành từ gia đình Verani là một gia đình thế giá trong thời Đế quốc La Mã. Nơi đây đã là một nghĩa trang kể từ thời kỳ này. Kiến trúc sư Ý Giuseppe Valadier đã tạo nên những nét hùng vĩ và đầy ấn tượng của nghĩa trang này. 

Nghĩa trang Verano đã được thánh hiến vào năm 1835 và các công trình vẫn được tiếp tục xây dựng nơi đó trong suốt triều đại giáo hoàng Gregôriô thứ 16 và Piô 9 dưới sự giám sát của Virginius, và Ernestus Immanuel là người đã thiết kế một mái che bốn mặt lớn tại lối vào. 

Tuy nhiên mái che này đã bị lực lượng Đồng Minh thả bom nhầm vào năm 1943 và công việc phục hồi sau đó đã được thực hiện như ta có thể thấy ngày hôm nay khi vào nghĩa trang này với ba lối vào lớn và bốn bức tượng đá cẩm thạch hùng vĩ mô tả việc chiêm niệm, hy vọng, lòng bác ái và sự im lặng. 

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc tới vụ đánh bom nghĩa trang Verano và vùng lân cận San Lorenzo của Rôma trong bài giảng của ngài khi lên án sự tàn phá các kỳ công sáng tạo, sự sống và các nền văn hóa đang diễn ra trong thế giới ngày nay và cầu xin Chúa giúp đỡ ngăn chặn cơn sốt điên dại hướng tới sự hủy diệt này. 

Điều thú vị là nghĩa trang cũng có một đài tưởng niệm những người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
PopeFrancis-01Nov2014-3.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-4.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-5.jpg PopeFrancis-01Nov2014-6.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-7.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-8.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-9.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-10.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-11.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-12.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-13.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-14.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-15.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-16.jpg

PopeFrancis-01Nov2014-17.jpg


Đặng Tự Do
http://conggiao.info/news/809/25382/duc-thanh-cha-phanxico-cu-hanh-le-cac-thanh-nam-nu-tai-nghia-trang-verano-cua-roma.aspx
-----------------------------------------------------
Xin cùng hiệp thông với Đức Thánh Cha Phanxicô và toàn thể Giáo Hội dâng lời cầu xin Lòng Thương Xót Chúa cho mọi tín hữu đã ly trần đều được an nghỉ vui hưởng phúc trường sinh trong Nước Chúa! A men
P. Mai Tự Cường (MTC)