Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

28-8: Mừng kính Thánh AUGUSTINÔ, Giám mục Tiến Sĩ Hội Thánh (354-430)


augustine.jpg  

Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste miền Numidia nay là Souk-Akras nước Algeria. Ông Patricô, cha ngài là một tiểu nông và là nghị viên thành phố. Ong là lương dân và chỉ theo đạo vào lúc cuối đời. Mẹ Ngài là thánh Monica đã nhờ kinh nguyện, lòng nhẫn nại và tình yêu không biết mệt mỏi đã cải hoá con. Theo thói quen thời đó, Augustinô thuộc vào số những ứng viên lãnh phép rửa tội, nhưng lại trì hoãn để tránh nguy cơ phạm tội, Ngài chỉ được thánh Ambrosiô rửa tội cho sau khi trở lại vào tuổi 32. 

Augustinô đã theo học những lớp về văn chương tại Thagaste và Madaura, cuối cùng Ngài theo học khoa tu từ tại Carthage. Đời sống luân lý của Ngài vào thời kỳ này không đến nỗi tồi tệ mà có lẽ khá hơn nhiều những thanh niên cùng thời và chúng ta không nên gắt gao kết án lối cư xử của Ngài theo sát chữ viết trong cuốn "tự thuật", chắc chắn Ngài có một tình nhân và trung tín với nàng cho tới năm 385. Ngài đã có với nàng một người con tên là Adeodatus cũng vào thời này Ngài trở thành người theo phái Manichêô. 

Năm 383, Augustinô đến Roma dạy tu từ và năm 384 có được một địa sở tại Milan. Lúc này Ngài đã thấu suốt được thuyết Manichêô và rơi vào tình trạng nghi nan bất định. Tại Milan, Ngài có dịp tiếp xúc với vị giám mục thời danh của giáo phận nầy là thánh Ambrosiô. Các bài giảng của thánh nhân cho Ngài thấy lần đầu tiên rằng Ngài có thể tin vào Thánh Kinh như sự giải thích của Giáo hội mà không phải hy sinh sự hiểu biết của mình. Ngài còn đọc sách của những nhà tân học phái Platôn như Plotinê và Perphyry, Những sách đã chữa cho Ngài khỏi thuyết duy vật của Manichêô và đưa Ngài vào triết học linh thiêng hơn, phù hợp với mạc khải Kitô giáo. 
Thánh Augustinô và mẹ ngài là Thánh Nữ Mônica

Augustinô đã xác tín về sự chân thật của Kitô giáo vẫn chưa đi đến bước quyết định, cho tới tháng 9 năm 386 khi Ngài trải qua một kinh nghiệm bất ngờ nhưng được chuẩn bị từ trước. Ngài đã trình bày kinh nghiệm ấy trong cuốn VIII bộ "tự thuật". Đây là cuộc trở lại Kitô giáo lẫn cuộc sống khổ hạnh đã theo đuổi bậc trọn lành. Bỏ nghề, Ngài lui về Cassiciacum, gần Milan, cùng thánh nữ Mônica mẹ Ngài và Adeodatus con Ngài, với một số bạn bè. Tại đây, Ngài bắt đầu viết và xuất bản một số tác phẩm và trau dồi về triết học, những tác phẩm đầu tiên của Ngài. 


Ngài được thánh Ambrosiô rửa tội vào lễ Phục Sinh năm 387 rồi cùng mẹ và các bạn trở về Phi Châu. Thánh nữ Mônica qua đời trên đường về tại Ostia. Tại Phi Châu theo lời khuyên của Đức Cha Valêriô địa phận Hippô, Ngài xin làm linh mục và được thụ phong năm 391. Năm 395, Ngài được tấn phong làm giám mục phụ tá và chẳng bao lâu sau lên kế vị đức cha Valêriô làm giám mục Hippô. 35 năm còn lại, Ngài bận rộn với công việc mệt nhọc của một giám mục địa phận, đồng thời vẫn dành giờ để trước tác. Ngoài tác phẩm được biết nhiều là bộ "tự thuật" còn nhiều tác phẩm thần học của Ngài (gồm 96 cuốn không kể các bài giảng và thư tín) đã mang lại sức sống mãnh liệt cho Giáo hội thời đó lẫn ngày nay. 

Thánh Augustinô sống đời tu viện với hàng giáo sĩ và làm mọi sự để khích lệ việc canh tân các cộng đoàn tu sĩ. Hai bài giảng về đời sống khổ hạnh trong cộng đoàn và một bức thư dài về các nguyên tắc mà Ngài viết cho các cộng đoàn nữ tu do Ngài thành lập và em Ngài là bề trên tiên khởi, làm thành "luật thánh Augustinô". 

Thánh Possidiô bạn Ngài đã viết một bản tường thuật rất hay về đời giám mục của thánh Augustinô. Bản tường thuật này cho thấy Ngài là một người rất nhân bản, dễ thương và giàu lòng bác ái, tận tụy phục vụ cộng đoàn, thích sống nghèo khó nhưng lại hiếu khách. Chỉ có một điều Ngài không thể tha thứ được là gương mù tại bàn ăn. Ngài luôn dấn thân vào việc bệnh vực Giáo hội chống lại các người theo lạc giáo như những người theo phái Manichêô, Phômatô, Pêlagiô. Cuộc tranh luận với Pêlagiô đã để lại những bút tích của thánh Augustinô về ơn thánh. Với ảnh hưởng lớn lao trong Giáo hội sau này. Dầu nhiệt tâm chống lại lạc thuyết, thánh Augustinô vẫn luôn lịch sự và thân ái khi đối thoại với các người theo lạc giáo. 


Thánh Augustinô đã sống để chứng kiến cuộc xâm lược man rợ của người Vandal vào Phi Châu bắt đầu từ năm 429. Ngày 28 tháng 8 năm 430 Ngài từ trần, hưởng thọ 76 tuổi, Ngài không để lại chúc thư vì không có tài sản gì. Nhưng kể từ khi qua đời tới nay, di sản tư tưởng của Ngài được ghi nhận là phong phú nhất sau thánh Phaolô.


http://conggiao.info/news/2301/18094/index.aspx
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường





Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

27/8 - THÁNH NỮ MÔNICA - BỔN MẠNG CÁC HIỀN MẪU - Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Thánh Nữ Mônica (mẹ) & Thánh Augustinô (con)
Thánh Mônica bị coi là một người vợ hay cằn nhằn, là con dâu đau khổ và là người mẹ thất vọng, nhưng bà không đầu hàng trước mọi nghịch cảnh. Dù bà là một Kitô hữu, cha mẹ vẫn bắt bà kết hôn với người ngoại giáo tên là Patrixiô, dân thành phố Tagaste ở Bắc Phi. Patrixiô có vài đặc điểm bù lại, nhưng ông rất nóng tính và phóng túng. Mônica phải chịu đựng bà mẹ chồng cực kỳ khó tính. Patrixiô phê bình vợ vì tính bác ái và đạo hạnh, nhưng vẫn luôn tôn trọng bà. Lời cầu nguyện và gương lành của Mônica đã khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo. Patrixiô mất năm 371, sau khi được rửa tội 1 năm.
Thánh Augustinô, giám mục Tiến sĩ Hội Thánh và mẹ ngài là Thánh Nữ Mônica
Thánh Mônica có 3 người con. Con cả là Augustinô, người nổi tiếng nhất. Lúc người cha mất, Augustinô 17 tuổi và đang là sinh viên khoa hùng biện ở Carthage. Thánh Mônica rất buồn khi biết con trai mình theo tà thuyết Manichean (*) và sống vô luân. Bà không cho Augustinô ăn uống hoặc ngủ trong nhà. Một đêm kia, bà thấy thị kiến chắc chắn Augustinô sẽ trở lại. Từ đó bà luôn theo sát con, cầu nguyện và ăn chay vì con.
Lúc 29 tuổi, Augustinô quyết định đi Rôma để dạy khoa hùng biện. Thánh Mônica quyết định đi theo. Một đêm nọ, Augustinô nói với mẹ là sắp đi tạm biệt một người bạn. Nhưng không, Augustinô lại lên tàu đi Rôma. Thánh Mônica rất đau khổ khi biết con lừa dối mình, nhưng bà vẫn đi theo. Bà vừa đến Rôma thì biết tin con trai “trời đánh” Augustinô đã đi Milan. Dù việc đi lại khó khăn, thánh Mônica vẫn theo con tới Milan.
Tại Milan, Augustinô chịu ảnh hưởng một vị giám mục là thánh Ambrôsiô, đồng thời là linh hướng của thánh Mônica. Bà nghe lời khuyên của thánh Ambrôsiô và khiêm nhường từ bỏ mọi sự. Thánh Mônica trở thành trưởng nhóm của các phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi bà ở Tagaste.
Tượng Thánh Nữ Mônica
Bà tiếp tục cầu nguyện cho Augustinô. Lễ Phục sinh năm 387, thánh Ambrôsiô rửa tội cho Augustinô và vài người bạn của Augustinô. Ngay sau đó, nhóm của Augustinô đi Phi châu. Biết mình không còn sống bao lâu nữa, bà nói với Augustinô: “Con này, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”. Sau đó bà lâm bệnh, và sau 9 ngày bệnh nặng thì bà qua đời. Hầu như những gì chúng ta biết về thánh Mônica là nhờ các tác phẩm của thánh Augustinô, đặc biệt là cuốn Tự Thuật (Confessions).
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
THÁNH NỮ MÔNICA (332-387)
Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Không có gì cao sang trong cuộc đời bình thường, cũng không phải là “đấng nam nhi” hay bậc anh hùng hảo hán”. Mônica chỉ là phận gái liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời của người phụ nữ này, đã trở thành tấm gương ngời sáng cho những người phụ nữ khác, đặc biệt là những người vợ, người mẹ trong các gia đình. Dù Mônica không sinh trưởng tại quê hương Việt nam, nhưng ở Thánh nữ chúng ta vẫn thấy đầy chất Á Đông của người phụ nữ đất việt: Công,Dung,Ngôn,Hạnh” và Tam tòng, Tứ đức”.

Cuộc đời Thánh Mônica

Thánh nữ sinh tại Thagaste, thuộc Bắc Phi châu vào năm 332 trong một gia đình công giáo. Lập gia đình với ông Patricius, một người ng
oại giáo và có được ba người con. Chồng Mônica là một người giàu có, nhưng tính tình nóng nảy và không chung thủy. Người mẹ chồng của thánh nữ cũng gắt gỏng và khó chịu. Patricius thường hay rầy la vợ, vì Mônica hay tỏ ra thương yêu và giúp đỡ mọi người. Dù vậy, thánh nữ vẫn luôn âm thầm hy sinh, kiên trì, chịu đựng trong nước mắt của nguyện cầu. Cuối cùng, Mônica cũng chinh phục được mẹ chồng cùng với chồng, và họ đã trở lại cùng Thiên Chúa. Patricius qua đời năm 371, sau khi đã lãnh nhận Bí tích rửa tội. Hết chồng rồi lại đến con, Augustin học theo tính khí của cha, sống phóng đãng và chạy theo bè rối Manichée, trong chín năm. Mônica theo con để mong ngày con được trở lại cùng Chúa. Những hy sinh của Mônica thật không uổng tí nào. Đêm Phục sinh, ngày 24 tháng tư năm 387, bà vui mừng dự lễ rửa tội cho thánh Augustin. Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi châu, thì Thiên chúa đã gọi Mônica về, lúc 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.

Gương thánh nhân

Thánh Mônica lập gia đình và hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban qua ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, ngài hết tình yêu thương và chiều chuộng chồng, tính nết hiền lành và đạo đức đó là bí quyết mà thánh nhân dùng để bảo vệ hạnh phúc gia đình.Làm mẹ,ngài tận tình chăm sóc và giáo dục con cái, nhất là đời sống đạo đức.Nhờ đó mà chồng con đều lần lượt trở lại đạo Chúa. Mônica nên thánh trong một đời sống gia đình, rất bình thường như những gia đình của mỗi người. Điều đó cũng làm cho chúng ta, nhất là các bà mẹ công giáo thử đặt lại vấn đề,tại sao tôi không dùng chính đời sống gia đình của mình để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày? Là một người vợ hay một người mẹ, tôi đã cầu nguyện với Chúa mỗi khi chồng con khô khan, nguội lạnh hay thậm chí mất đức tin…

Lạy Thánh Mô
nica, bổn mạng của giới Hiền mẫu, qua lời bầu cử của Ngài, xin cho các người vợ, người mẹ có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, để hướng dẫn gia đình trong tình thương của Thiên Chúa. Giữa một cuộc sống đầy thử thách, tình trạng chối bỏ sự sống ngày càng lan tràn, giáo dục con cái trở nên đầy thách đố. Xin cho các gia đình luôn biết lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa qua những giáo huấn của Giáo hội. Amen.
http://tinmung.net/cacthanh/_CacThanh/_Thang08/Monica/TimHieu/ThanhMonica.htm
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường
VIDEO MỪNG LỄ THÁNH NỮ MÔ NICA TẠI GIÁO XỨ TÂN HƯƠNG, KON TUM 27/8/2014
PHẦN HAI: PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
MTC 27/8/2015

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2015

22/8 - MẸ TUYỆT VỜI - MỪNG LỄ ĐỨC MARIA NỮ VƯƠNG - LM. NGUYỄN HƯNG LỢI - DCCT


ĐỨC MA-RI-A NỮ VƯƠNG, (Lc 1, 26-38)

Còn gì vui bằng, hạnh phúc khi có Mẹ ở bên. Còn Mẹ là một ân huệ. Còn Mẹ là một hồng ân tuyệt diệu. Mẹ trần thế còn quí hóa như thế. Mẹ trên trời còn giá trị biết bao.
Maria là tên người Mẹ thiêng liêng, tên cao trọng, tên tuyệt vời. Còn gì hạnh phúc khi con người được thân thương gọi tên Mẹ” Ma-ri-a”. Tên Mẹ thật dịu hiền, thật nhẹ nhàng, thật gợi cảm. Tên Mẹ gói ghém tất cả, nói lên tất cả. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là Nữ Vương trên trời dưới đất. Với muôn tước hiệu Giáo Hội ca tụng Mẹ : “ Tước hiệu nào cũng đẹp, cũng quí, cũng cao vời “. Nhân loại không ngớt cùng Mẹ tung hô Thiên Chúa :
“ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.” ( Lc 1, 46-48 ).
Ma-ri-a quả thực đã trọn đời tín thác nơi Chúa. Việc thăm viếng bà chị họ Ê-li-gia-bét nói lên tình thương của Mẹ đối với ông Dacaria và bà Êligiabét, Mẹ đến để phục vụ họ, nhưng Mẹ đến cũng là đem cho họ sứ điệp của niềm vui và bình an :” Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êligiabét( Lc 1, 40 ) “. Lời chào của Ma-ri-a có ý nghĩa cao vời hơn mọi lời chào xã giao hoặc lời chào của những người thân đi xa về. Mẹ Ma-ri-a, Nữ tử Sion đã nói lên lời chào bình an, lời chào hoàn tất niềm mong đợi của Israen. Mẹ đã đem niềm hạnh phúc, mang Chúa Giêsu, hoa trái của lòng trinh khiết của Mẹ, mang Vua Hòa Bình là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần đến để khi bà Êligiabét vừa nghe lời Mẹ, đứa con trong bụng bà nhảy lên… ( Lc 1, 41 ).
Ma-ri-a đã trao ban chính bản thân trọn vẹn bằng lời “ xin vâng “ đầy lòng tin và tín thác nơi Thiên Chúa, do đó :” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “ ( Ga 1, 14 ).


Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương các Ngôn sứ, các thánh tử đạo, Nữ Vương trên trời dưới đất. Tước hiệu ấy đi đôi với tước hiệu Vua Giêsu Con của Mẹ. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Vua yêu thương, phục vụ và khiêm nhượng. “ Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Ngài xác nhận :” Tôi là Vua “( Ga 18, 37 ).
Vua chết trên thập giá để kéo mọi người đến với Ngài vì “Chỉ nơi Ngài mới có ơn cứu chuộc chan chứa “ ( Copiosa apud Eum Rédemptio ).” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình “ ( Ga 15, 13 ). Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương đứng dưới chân thập giá:” Con Mẹ là Vua cứu chuộc”. Nên, Mẹ cũng đồng hiệp thông với sự đau khổ, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu để thống trị với Con của Mẹ trong Nước Thiên Chúa.”…Hôm nay, trong lễ Đức Ma-ri-a Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ ngự bên cạnh Vua cao cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người Mẹ nhân hiền”  ( Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong tông huấn :” Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria “ ).
Dù rằng, thế giới hôm nay, chức “ Vua” chỉ có vai trò tượng trưng, nhưng không hề có thực quyền, Ma-ri-a là Nữ Vương vẫn hoàn toàn có giá trị, vẫn hoàn toàn có uy quyền trước Chúa Giêsu Vua, Con của Mẹ . Nhân loại vẫn không ngớt ca tụng Mẹ là Nữ Vương như kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vẫn thường đọc. Mẹ là Nữ Vương bên ngai tòa Đức Kitô để Mẹ chiếu dọi ánh hào quang vinh quang của Chúa Giêsu Vua cho nhân loại.


Người ta đã tôn sùng Đức Trinh Nữ Vương từ lâu đời. Đức Thánh Cha Piô VII vào thế kỷ XIX đã công khai cho phép một số Giáo Phận mừng lễ Đức Trinh Nữ Vương. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã thiết lập một lời nguyện và một lễ kính Đức Trinh Nữ Vương đặc biệt. Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng dâng loài người cho trái tim vẹn sạch Đức Trinh Nữ Vương vào năm 1942 giữa lúc thế chiến thứ 2 đang ngập tràn. Năm 1944, chính Đức Giáo Hoàng Piô XII đã buộc mừng kính lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương trong Giáo Hội toàn cầu.
Muôn đời, nhân loại sẽ hiệp ý với Mẹ Trinh Nữ Vương ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa:” Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người “( Lc 11, 49-50 ).
Mẹ là Nữ Vương cao sang, uy quyền. Mẹ là Nữ Vương tuyệt mỹ.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con trước ngai tòa Chúa để chúng con luôn tín thác vào Chúa và hết lòng trông cậy vào Mẹ. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường


THÁNH CA:
--------------------------------------------------------
Mừng Lễ Đức Maria Nữ Vương, Bổn mạng Xóm Giáo Trinh Vương, Giáo Xứ Phương Nghĩa, GP. Kon Tum.
Kính chúc Quý ông Biện, Quý ông bà, anh chị em trong Xóm giáo được luôn tràn đầy ơn thánh Chúa và niềm vui của Mẹ nhân ngày mừng Bổn mạng của Xóm Giáo Trinh Vương.


Đức Maria Nữ Vương
22/8/2015

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

21-8 - MỪNG LỄ KÍNH THÁNH GIÁO HOÀNG PIÔ X

Thánh Pius X (Ngày 21/08)PDF.InEmail
pio 10
THÁNH PIÔ X 
Giáo hoàng
Thánh Gioan viết:” Người mục tử nhân lành, hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” ( Ga 10, 11 ). Thánh Piô X xứng đáng với lời ca ngợi của ca nhập lễ, lễ thánh Giáo Hoàng:” Chúa đã lập với vị thánh này một giao ước bình an, đặt Người làm thủ lãnh và ban cho Người chức tư tế, tồn tại đến muôn đời”.

CON NGƯỜI CỦA THÁNH PIÔ X:
Thánh nhân có tên là Giuse Sarto, sinh năm 1835 tại làng Riese, miền Vénétia nước Ý. Thánh Piô X rất thông minh, cần mẫn và sáng trí . Ngài học tiểu chủng viện Pađua và thụ phong linh mục vào năm 1858.Thánh nhân đã làm cha phó giáo xứ Tomholo, rồi chánh xứ Salzanô, và được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma. Vì là một người có tài, có đức, nên Ngài được Đức Thánh Cha phong làm Giám Mục địa phận Mantoue vào năm 1884. Thánh nhân đã chu toàn trách nhiệm chủ chăn, chuyên lo đào tạo hàng giáo sĩ, thương yêu,lưu tâm đến người nghèo và để ý tới phụng vụ. Với những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho tha nhân, năm 1893, thánh nhân được phong làm Hồng Y, Giáo Chủ Venise Thiên Chúa đã tuyển lựa Ngài cách đặc biệt để lèo lái Giáo Hội của Chúa, nên sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIII qua đời, Ngài được bầu lên chức vụ tối cao của Giáo Hội vào ngày 4 tháng 8 năm 1903. Ngài đã cố gắng chối từ nhưng như lời Chúa nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Trên ngai Giáo Hoàng, Ngài vẫn sống đơn sơ, khiêm nhượng, khó nghèo. Thánh nhân bảo vệ đức tin, củng cố đức tin cho mọi người, lên án, chống lại phái duy tâm, tiếp xúc với các nhóm ly giáo, đặt nền tảng vững chắc cho giới tu sĩ, soạn thảo cuốn giáo luật, khuyến khích lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, việc siêng năng rước lễ và việc ban cho trẻ em rước lễ sớm hơn thường lệ.

THÁNH PIÔ X QUA ĐỜI VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:
Với trách nhiệm chủ chăn hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô X đã lo âu, đau khổ vì thế chiến đang bắt đầu. Thánh nhân nhạy cảm trước mọi biến cố của thế giới xảy đến, Ngài chia sẻ với thế giới, với mọi người nỗi đau, nỗi buồn và sự vui mừng, Ngài ra đi về với Chúa trong an bình vào ngày 20 tháng 8 năm 1914. Năm 1945, Đức Thánh Cha Piô XII đã phong thánh cho Ngài.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giáo Hoàng Piô X trí khôn ngoan siêu việt và lòng dũng cảm xứng bậc Tông Đồ để Người bênh vực đức tin công giáo và quy tụ tất cả về Đức Kitô. Xin rộng ban cho chúng con biết nghe lời thánh nhân giảng dạy và noi gương sáng của Người hầu mai ngày đạt tới phước trường sinh”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Piô X).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://www.ducbafatima.com/index.php?option=com_content&view=article&id=314:pio&catid=36:hct&Itemid=79
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

14-8: Thánh MAXIMILIAN KOLBE (1894-1941), TỬ ĐẠO


8/13/2014 6:24:10 PMNgày 14/08
kolbe.jpg  
Maximilian Kolbe sinh ngày 7 tháng 1 năm 1894 tại Zdunska Wola, Ba Lan với tên cha mẹ đặt là Raymond Kolbe. Ngài gia nhập tiểu chủng viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16 tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.

Sau khi thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Ngài sáng lập tổ chức Ðạo Binh của Ðức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập "Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm" -- Niepolalanow -- mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ chức Ðạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Tình yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Ðức Maria.

Năm 1939, Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Trại tù Auschwitz của Đức Quốc Xã

Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.

Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.

Các tù nhân bị Đức Quốc Xã giam giữ và giết hại dã man

Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.

"Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con."

Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.

"Mày là ai?"

"Là một linh mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.

Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.

Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày áp lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (14 tháng 8 năm 1941) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như những tù nhân khác.


Cha được Đức Thánh Cha Paul VI tôn phong Chân Phước ngày 17 tháng 10 năm 1971 và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức ghi tên cha vào sổ các thánh tử vì đạo của lòng nhân ái của Giáo Hội ngày 10 tháng 10 năm 1982.

http://conggiao.info/news/2301/24239/thanh-maximilian-kolbe-1894-1941.aspx
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường

MARIA CẢ HỒN và XÁC LÊN TRỜI - LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI 15/8 - LM. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Lc 1, 39-56
MARIA CẢ HỒN và XÁC LÊN TRỜI

Ngày 01 tháng 11 năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã tuyên bố tín điều vô ngộ trong bửu sắc Munificentissimus Deus như sau: “ Chúng Tôi công bố, tuyên xưng, và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này : Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên Trời Hiển vinh cả Hồn lẫn xác”. Vâng, Mẹ Maria là người Nữ Tử Sion tuyệt hảo Thiên Chúa đã tuyển chọn Người làm Mẹ Thiên Chúa. Do đó, Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ những đặc ân cao quí nhất, nhân loại không ai được Ngài  trao ban những ân huệ quí giá như vậy.


ƠN HỒN XÁC LÊN TRỜI :
 Đức Thánh Cha Piô XII khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác lên trời sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Ngài không nói mông lung, nhưng Ngài đã tuyên tín điều này với tất cả niềm tin và đức tin này dựa trên những cơ sở chắc chắn như thế kỷ V. Người ta mừng kính lễ Mẹ Maria Hồn Xác lên Trời ở Syria, thế kỷ VI, giáo đoàn Giêrusalem đã mừng kính lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, cuối thế kỷ VIII, khắp Hội Thánh Tây Phương đã cử hành lễ này…Thánh Kinh cũng đã cung cấp các dữ kiện, các luận cứ về việc Đức Maria Hồn Xác lên Trời: “ Đức Maria là Hòm Bia của Chúa Kitô”, ngôn sứ Isaia đã viết :” Ta tôn vinh chỗ Ta đặt chân”( Is 60, 13 ), sách Khải Huyền cũng khẳng định:”Người Nữ trốn vào sa mạc, ở đó đã có chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho Bà”( Kh 12,6 )”. Giáo lý Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên tội đưa đến kết luận:” Không như mọi con cái của Evà, Đức Maria, Evà Mới, sẽ không phải chết về phần xác “. Niềm tin Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa cũng đưa Giáo Hội đến chỗ tin rằng Chúa Giêsu sẽ không để Mẹ Maria, Mẹ yêu quí của Người phải chịu cảnh hư nát vì sự chết. Sách Giáo lý Hội Thánh công giáo viết:” Việc Đức Trinh Nữ được lên Trời Hồn Xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu”( số 966 ). Do đó, ta hiểu được rằng đặc ân Hồn Xác lên Trời của Đức Mẹ là một ơn huệ cao quí không một người nào ở trần thế được Thiên Chúa thưởng công như thế.


TẠI SAO MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI ?:
 Người Nữ trong sách Khải Huyền nói đến hôm nay là tiên trưng cho Đức Trinh Nữ Maria. Maria, ngay từ giây phút đầu tiên trong cuộc đời đã được Thiên Chúa giữ gìn, bảo toàn và tuyển chọn dành riêng cho Ngài. Nên, tâm hồn và thể xác của Mẹ luôn tinh trong, không vương chút tì ố, không mang trong mình vết tích của tội nhơ nguyên tổ. Mẹ đã được chọn giữa muôn người phụ nữ làm Mẹ Thiên Chúa, làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, do đó, Mẹ đã được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Thân xác và tâm hồn của Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Con của Mẹ là Chúa Giêsu mà Mẹ cưu mang trong cung lòng là bởi phép Chúa Thánh Thần. Mẹ sinh con mà vẫn trọn đời trinh khiết. Đây là đặc ân cao quí nhất chưa hề có người phụ nữ nào được ân phúc như Mẹ. Hình ảnh người Nữ mà thánh Gioan diễn tả:”  Mình mặc áo mặt trời, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao là hình ảnh của chính Mẹ Maria và Giáo Hội của Chúa Kitô “. Maria là hình ảnh vẹn toàn nhất của Giáo Hội ngày mai, là bình minh của Giáo Hội khải hoàn. Bài Magnificat trong Tin Mừng của thánh Luca 1, 39-56 là lời cảm tạ tuyệt hảo Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ để Maria cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì muôn vàn hồng ân Ngài đã ban cho Mẹ Maria. Chính niềm tin tuyệt đối của Mẹ Maria vào Thiên Chúa đã khiến Maria trở nên vững mạnh và đáng được thế giới chúc tụng Mẹ muôn muôn ngàn đời. Sự tinh trắng, nguyên vẹn của thể xác và tâm hồn của Mẹ Maria đã khiến Mẹ được được đặc ân riêng biệt:” Vô Nhiễm Nguyên Tội “. Sự vô tì tích của tâm hồn và thể xác Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc cho cả hồn lẫn xác của Mẹ sau khi trọn vẹn cuộc hành trình đức tin trần thế, được lên Trời hưởng vinh quang vĩnh cửu cùng với Thiên Chúa Ba Ngôi và triều thần thánh trên Trời.


MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI CÓ Ý NGHĨA GÌ VỚI CHÚNG TA ?:
 Sự kiện Đức Maria hồn xác lên Trời là một mầu nhiệm đức tin. Tín điều vô ngộ của Đức Thánh Cha Piô XII về Đức Mẹ cả Xác lẫn Hồn lên Trời cũng là mầu nhiệm của lòng tin. Việc Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời đã xảy ra trong lịch sử nhân loại và lịch sử cứu rỗi. Nó là mầu nhiệm của đức tin. Nên, tín điều Hồn Xác Lên Trời của Đức Mẹ mà Hội Thánh qua miệng Đức Giáo Hoàng công khai tuyên bố trên tòa ngai thánh Phêrô đã minh định cho nhân loại, cho con người biết rằng:” Maria có liên hệ chặt chẽ với mỗi người chúng ta”. Nhờ sự trinh khiết, tinh ròng và vô tì tích cả hồn lẫn xác của Đức Trinh Nữ Maria, mọi người có lòng tin sẽ được hưởng nhờ đặc ân cứu độ của Thiên Chúa và tin vào sự giải thoát tội lỗi Thiên Chúa dành cho Maria là ta tin vào chính Đức Kitô chết và sống lại. Maria đã lên Trời cả Hồn lẫn xác. Maria đã được diện đối diện với Thiên Chúa. Maria lên Trời là hình ảnh của Giáo Hội khải hoàn và là vinh quang của thập giá Đức Kitô, Con Mẹ. Tin vào thập giá sẽ được cứu độ. Vì thế, tin vào Đức Kitô đã giải thoát Mẹ khỏi sự chết của tội lỗi, tức là tin vào sự bất diệt của tâm hồn và thể xác Thiên Chúa dành cho Maria, cũng như cho Hội Thánh khải hoàn.
Mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên Trời, chúng ta cầu khẩn Thiên Chúa, qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria cho chúng ta cũng được lên Trời vinh hiển với Mẹ mai sau.


LỜI KINH CẦU NGUYỆN CÙNG ĐỨC TRINH NỮ MARIA của ĐỨC THÁNH CHA PIÔ XII:
Ôi Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ toàn thể nhân loại.
Với lòng tin sốt sắng, chúng con vững tin xác hồn Mẹ đã được vinh hiển lên trời, nơi đó, Mẹ được đặt làm Nữ Vương toàn thể cơ binh thiên thần và toàn thể các thánh. Chúng con xin hợp với các Ngài để ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa là Đấng đã siêu tôn Mẹ trên mọi thụ tạo, và chúng con xin dâng lên Mẹ lòng sùng kính sốt sắng và yêu mến…
Từ cõi trần gian đang lê bước lữ hành, chúng con được an tâm nhờ niềm tin vào cuộc phục sinh tương lai; chúng con nhìn lên mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và niềm hy vọng của chúng con. Xin Mẹ lôi kéo chúng con bằng sự dịu ngọt của giọng nói của Mẹ, để một ngày kia, sau cuộc lưu đầy này, Mẹ cho chúng con được nhìn thấy Chúa Giêsu, quả phúc của lòng Mẹ.
Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria Trọn Đời Đồng Trinh. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường

Đức Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời
" Có điềm lớn xuất hiện trên trời: Một người phụ nữ mình khoác mặt trời làm áo, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai sao sáng" Kh. 12,1


Đoàn con dưới thế hân hoan mừng trọng thể Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, vì Mẹ đã rất xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phúc hơn mọi người phụ nữ khác và ban cho Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đặc quyền làm Nữ Vương trên trời dưới đất, với quyền ban phát mọi ơn lành của Thiên Chúa cho nhân loại chúng con.
Khấn xin Đức Mẹ đoái thương đoàn con dưới thế, đang còn phải chiến đấu gian khổ chống mọi quyền lực của ác thần, được nên trung thành và quả cảm để đứng vững dưới lá cờ đạo binh của Mẹ. 
Khấn xin Mẹ thương ban cho mọi người con cái Mẹ được luôn vững tin tín thác mọi sự vào Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa, để trong ngày sau hết, được cùng Mẹ vui hưởng hạnh phúc trường sinh trên Thiên đàng. A men.
-----------------------
TÌM HIỂU THÊM
VỀ LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
---oOo---
Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời

Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trờiTrần Văn Trí

Đối với Giáo Hội Công Giáo, từ 1950, Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tín điều thuộc phạm vi Đức Tin. Trong khi, từ những thế kỷ tiên khởi, việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được các tín hữu vững tin dựa vào truyền thống, dù không có nền tảng trong Thánh Kinh. Giáo Hội nhìn nhận truyền thống như thế phù hợp với kho tàng Đức Tin được khai triển vào giữa thế kỷ 19 trong Tín điều “Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội”, công bố theo thông điệp “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa bất khả ngộ) ngày 8-12-1854.
 
Năm 373, Thánh Euphreim đã nêu lên quan niệm rằng, sau khi lìa đời, xác của Đức Maria vẫn nguyên vẹn vì Mẹ không nhuốm lấy dơ bẩn của sự chết. Ở Phương Tây, Grê-gô-riô de Tours đã dựa vào tài liệu “Transitus Mariae” (Đức Maria lìa đời), thế kỷ thứ 5 (495-496), nói về Đức Mẹ khi lìa đời (có các tông đồ hiện diện), được Chúa Giêsu đón rước linh hồn và cả xác, lên Thiên Quốc. Ở Phương Đông, Gioan Đa-mas-xê-nô thuật lại sự tích trong Giáo hội Giêrusalem: Vào Công đồng Cal-cê-đô-ni-a, năm 451, hoàng đế Marcianô và hoàng hậu Pulsêria yêu cầu Đức Giám mục Juvénal, thành Giêrusalem, tìm xác Đức Mẹ và tường trình cho Công Đồng. Sau khi tìm kiếm, Đức Cha Juvénal trình rằng:
 
“Khi Đức Mẹ lìa đời thì các Tông đồ đều có mặt, trừ ông Tô-ma đi vắng. Vài ngày sau, khi trở về, Tôma đòi xem xác Đúc Mẹ. Các tông đồ ra phần mộ thì thấy mộ trống trơn, không còn có xác Đức Mẹ. Các tông đồ tin rằng Mẹ Maria đã được Chúa Giêsu đem lên Thiên Quốc hợp cùng linh hồn của Mẹ.”
 
Ngoài ra, tuy trong Giáo Hội không có tài liệu Thánh Kinh nào về Đức Mẹ hồn xác lên trời, nhưng các tín hữu hằng vững tin về “Đức Mẹ mông triệu thăng thiên” như mầu nhiệm.thứ bốn của Năm Sự Mừng: Thứ bốn thì ngắm “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời, ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.”
 
Theo Thánh Truyền, từ lời Chúa Giêsu trối trên thập giá: “Nầy là mẹ của anh” (Ga 19: 27), môn đệ Gioan lãnh phần chăm sóc Đức Mẹ, Năm 370, có tài liệu nói về Thánh Nữ Đồng Trinh đã sống tại Giêrusalem vào cuối cuộc đời của Mẹ và về phần mộ của Đức Mẹ tại Giết-sê-ma-ni, nơi thung lũng Gio-da-phát. Nơi đây, vào khoảng năm 431, có Vương Cung Thánh Đường Thánh Maria trong đó có phần mộ của Đức Mẹ, dù là mộ trống vì Đức Mẹ đã được Thiên Chúa đưa cả hồn và xác lên trời.
 
Tất cả các trích thuật nầy, tuy không phải từ Thánh Kinh mà do Thánh Truyền, nhưng giáo hữu sốt sắng vững tin và sùng mộ. Hơn nữa, điều căn bản người tín hữu cần hiểu biết về Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời là ý nghĩa Đức Mẹ được Thiên Chúa rước về Thiên Quốc cả hồn lẫn xác - Assumptio Beatae Mariae Virginis, khác với mầu nhiệm Chúa Giêsu Thăng Thiên –Ascensio Domini, vì Đức Giêsu Kitô về cùng Thiên Chúa Cha, hay tự lên trời do quyền phép của chính Ngài.
 
Hai mầu nhiệm “Lên Trời” và “Mông Triệu Thăng Thiên” có trong Năm Sự Mừng Chuỗi Mân Côi.
 
Cũng theo Thánh Truyền, từ thế kỷ thứ 4 trở đi, niềm tin vào “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời” được phổ biến trong cả Giáo Hội Đông Phương lẫn Tây Phương. Cụ thể, trong các Giáo Hội Đông và Tây Phương, có nhiều vị đạo đức hoặc các Giáo Phụ, về sau được phong thánh, đã nhiệt thành rao giảng về hồng ân Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời, như Thánh Grêgôriô thành Tours, Thánh Mô-đét-tô, Th. Xô-phrô-ni-ô, Thượng phụ Giêrusalem, Th. Ger-ma-nô, Constantinople.

 
Tại sao hằng năm, Lễ Đức Mẹ lên trời vào ngày 15 tháng 8
 
Vào đầu thế kỷ thứ 6, Thánh Tê-ô-đô-xi-ô (Theodosius) cho biết: Trước năm 500, hằng năm các thầy dòng Palestine mừng trọng thể Lễ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria hồn xác lên trời vào ngày 15 tháng 8. Trong khi, theo Giáo Lý, tại Ai cập và A-ra-bi-a thì giáo hữu mừng lễ vào trung tuần Tháng Giêng. Đến thế kỷ 6, ngày lễ 15 tháng 8 lan rộng khắp Giáo Hội Đông Phương. Tại đế quốc Hy lạp, Hoàng đế Mô-rít (Mauritius) công bố ngày lễ 15 tháng 8 với danh xưng “Lễ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria Ngủ – Dormitio Sanctae Mariae Virginis” theo tinh thần Phụng vụ By-giăng-tin (Giáo Lý GHCG, 966).
 
Cũng vào thế kỷ 6, Giáo Hội Rôma lấy ngày 15-8 làm ngày mừng Lễ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria – Festivitas Beatae Mariae Virginis và mừng tại đền thờ Đức Bà Cả (Santa Maria Maggiore).
 
Từ năm 700, thời Đức GH. Sergius I (687-701), Lễ Mông Triệu mừng trọng thể, có rước kiệu Đức Mẹ.
 
Từ nguyên thủy, trong Sách Lễ Rô-ma, ngày lễ có tên “Assumptio Beatae Mariae Virginis”, với từ La-tinh Assumptio do động từ “Adsumere – assumptus” có nghĩa “kết hợp”, nên ngày lễ gọi đúng tên là “Lễ Kết Hợp của Thánh Nữ Đồng Trinh Maria” (và phải thêm “với Chúa Giêsu Con Mẹ trên trời “).
 
Như vậy, ý nghĩa ngày lễ không nằm trong tên gọi mà chính trongĐức Tin, nền tảng của Thánh Truyền, giúp người Kitô-hữu đồng ý về hồng ân “Đức Mẹ, sau khi viên mãn cuộc đời trần thế, được Thiên Chúa đón rước cả hồn xác lên trời kết hợp với Chúa Giêsu Con Mẹ”. Từ đó, ngày lễ có tên phổ thông là “Lễ Đức Mẹ.hồn và xác lên trời”, mà người Công Giáo Việt Nam gọi làLễ Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên, hay Lễ Mông Triệu, lễ trọng, lễ buộc, có Lễ Vọng ngày 14 tháng 8. Ngày nay, Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lễ trọng, lễ buộc, vì được vào quy củ Phụng Vụ nhờ tín điều Đức Mẹ Hồn Xác lên trời và Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội 21-11-1964 (Lumen Gentium 59, tr. 247) nhắc lại: Sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn.


 
Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời
 
Cần nhắc lại Tín Điều vì niềm tin thâm sâu và nhiệt tình vào “Đức Mẹ hồn xác lên trời” đã có từ lâu đời trong Giáo Hội Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành, nhất là từ giữa thế kỷ 19, sau khi Đức GH. Piô IX (1846-78) công bố tín điều “Ineffabilis Deus” về “Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội” (8-12-1854).
 
Đến giữa thế kỷ 20, Đức GH. Piô XII (1939-58) được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã cho mở các cuộc điều tra rộng rãi và nhận thấy có nhiều thỉnh nguyện từ giáo hội hoàn vũ xác tín mầu nhiệm cao cả đó.
 
Vào Lễ Các Thánh Nam Nữ 1-11-1950, Đức GH Pi-ô XII ban hành Tông hiến lấy hai từ đầu bằng tiếng La-tinhMunificentissimus Deus (MD) của văn kiện, có nghĩa “Thiên Chúa rộng rãi hải hà”, công bố Tín điều Thánh Nữ Đồng Trinh Maria Hồn Xác Lên Trời gồm các điểm căn bản như sau.
 
Với 48 số mục, Tông hiến tuyên xưng:
 
Thiên Chúa rộng rãi hải hà, dưới các điều kiện và phương thức khác nhau, làm cho mọi sự cùng hoạt động đem lại thiện mỹ cho những ai yêu mến Ngài” (MD, 1). Đức Thánh Cha nói đến giáo triều của người có “biết bao ưu tư, lo âu, rối loạn, với tai ương rất trầm trọng, sự kiện làm xa vời chân lý và nhân đức”, thúc đẩy Giáo Hội gia tăng lòng sốt sắng chạy đến khẩn cầu Mẹ, tôn vinh Mẹ (MD, 2). Người đề cập đến lý do ban hành Tông hiến (MD, 3) dựa vào nền tảng mà Đức GH. Piô IX đã ban hành tông hiếnIneffabilis Deus (Thiên Chúa bất khả ngộ) ngày 8-12-1854, công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội (MD, 4); những thỉnh nguyện và truyền thống đạo đức tôn vinh mầu nhiệm “Đức Mẹ hồn xác lên trời” (MD 7-19); chứng nhân của các Giáo phụ, các nhà thần học, các tiến sĩ Hội Thánh, các diễn giải Thánh Kinh (MD 20-41), dẫn đến việc triều đại Piô XII công bố tông huấn (MD 42-48) với những điều khoản luật định theo đức tin (MD 45-47) và ngày-tháng-năm ban hành (MD 48). Công bố chính yếu (MD, 44) minh định mà người giáo hữu phải nắm vững khi tìm hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa lễ nghi Phụng Vụ Thánh:
 
Với bao lời cầu xin dâng lên Thiên Chúa, cầu khẩn ánh sáng của Thần Chân Lý, vì sáng danh Chúa và lòng yêu mến Mẹ Maria, để tôn vinh Con Mẹ, là Vua hằng sống; vì niềm hân hoan của toàn thể Giáo Hội, vì quyền năng của Đức Giêsu Kitô, của hai Thánh Tông Đồ Phêrô-Phaolô, và uy quyền của chính Giáo hoàng, chúng tôi công bố tín điều được Thiên Chúa mạc khải, rằng:
Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria trọn đời Đồng Trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, được cả hồn và xác mông triệu thăng thiên vào vinh quang Thiên Cung.”
 
Qua Tông hiến “Munificentissimus Deus”, ban hành ngày 1-11-1950, Đức GH. Piô XII công bố tín điều “Đức Mẹ hồn xác lên trời”. Từ đó, ngày lễ được mừng trọng thể khắp Giáo Hội hoàn vũ vào 15 th. 8.
 
Hằng năm Lễ Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên là lễ lớn tổ chức rất trọng thể trên khắp thế giới, như ở Áo, Ba lan, Bỉ, Bồ-đào-nha, Ca-mê-run, Chi-lê, Côte d’Ivoire, Cro-a-xi-a, Đông Timor, Hy lạp. Ly-ban, Li-tu-a-ni-a, Man-ta, Mau-ri-ta-ni, Slo-va-nia, Tây ban nha và tại các quốc gia Mỹ Châu, như Mễ tây cơ và các nước Công giáo Nam Mỹ.
 
Tại Pháp, ngày lễ khởi sự vào thế kỷ 17 theo lời khấn hứa của vua Louis XIII (1601-43). Năm 1637, nhà vua khấn xin Đức Mẹ cho có một đứa con trai nối nghiệp. Vua dâng nước Pháp cho Đức Mẹ và truyền cho dân chúng mừng Lễ Đức Mẹ 15 tháng 8 trọng thể có rước kiệu tại các giáo xứ. Năm sau 1638, hoàng tử Louis ra đời (sau là vua Louis XIV) càng làm tăng thêm sự mến mộ sùng kính Đức Mẹ. Cách riêng, tại thánh địa Lộ Đức, Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là lễ hội tổ chức chu đáo trước và sau ngày 15 tháng 8. Việc kính viếng thánh địa Đức Mẹ Lộ Đức, từ thập niên 1870, do các Linh mục và tu sĩ Dòng Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên, cùng với các thiện nguyện viên “Assomption” đảm trách.


 
Lễ Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên tại Việt Nam
 
Ngày lễ rất được giáo hữu Việt Nam sùng mộ, nhiều nơi có rước kiệu trọng thể, nhất là tại các giáo xứ chọn “Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên” làm bổn mạng. Tại Thánh địa Lavang có ngày hội trọng thể hầu giáo hữu tựu họp kính viếng Đức Mẹ vào tháng 8 với các sinh hoạt đạo đức gọi là Đại hội Lavang. Tại sao Tháng 8là tháng đáng nhớ đối với người Công giáo Việt Nam, nói riêng, và đối với người Việt, nói chung? Con cái Đức Mẹ luôn luôn ghi nhớ thời vua Cảnh Thịnh (1792-1801) là thời có những mật lệnh bắt và giết tất cả các Linh mục và giáo dân. Ngày 7 tháng 8-1798, nhà vua ra lệnh tấn công các họ đạo từ Phú Xuân đến cả vùng Cổ Vưu, tỉnh Quảng Trị. Người Công giáo, với cả nhiều người ngoài Công giáo, chạy trốn giặc và quân giết người, tìm vào trú ẩn ở vùng rừng rú phường Lá Vằng, về sau gọi là Lavang. Ban đêm, khi họ tụ tập nhau đọc kinh cầu nguyện thì Đức Mẹ hiện ra an ủi họ. Sau các sắc dụ cấm đạo, giữa tháng 8-1798 là thời kỳ bắt đạo dữ dội, nên rất đông người Công giáo thuộc các giáo xứ Cồ vưu, Thạch hãn, Hạnh hoa, chạy vào rừng rú Lavang, phó thác vào Đức Mẹ được tôn vinh là “Nữ Vương các Thánh Tử Đạo” hoặc “Đức Bà phù hộ các giáo hữu”. Để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ Lavang, giáo hữu Địa phận Huế đã làm một nhà thờ tranh kính Mẹ Maria. Năm 1886, Đức Cha Gaspar Lộc, Giám mục Địa phận Huế, quyết định xây một nhà thờ ngói tại chính nơi Đức Mẹ  đã hiện ra năm 1798. Nhà thờ xây dựng trong vòng 15 năm, được khánh thành từ 6 đến 8 - 8 năm 1901.
 
Sau 30-4-1975, phần lớn linh địa La-Vang do nhà nước quản lý, với số diện tích đất đai có phần nằm trong tay những kẻ có uy thế. Sau nhiều năm thương lượng, Tòa Tổng Giám mục Huế được nhà cầm quyền cho tái thiết linh địa La-Vang, hy vọng khởi công vào Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15-8-2012.
 
Tham Khảo: Catholic Encyclopedia – Assomption de la Sainte Vierge Marie
-------------------------
THÁNH CA:
MẸ LÊN TRỜI
TÁC GIẢ: LM. KIM LONG